Điều chỉnh lãi suất cho vay nhà ở xã hội: Bảo đảm cân đối nhiều yếu tố
Cân nhắc từ nhiều
góc độ
Nghị định số
100/2024/NĐ-CP, có hiệu lực từ ngày 01/8/2024, quy định chi tiết một số điều của
Luật Nhà ở về phát triển và quản lý nhà ở xã hội, đã mang đến một loạt thay đổi
đáng chú ý liên quan đến việc cho vay nhà ở xã hội. Một trong những thay đổi
đáng chú ý là lãi suất cho vay được điều chỉnh theo mức lãi suất cho vay đối với
hộ nghèo do Thủ tướng Chính phủ quy định trong từng thời kỳ. Mức lãi suất nợ
quá hạn cũng được quy định là 130% so với lãi suất cho vay thông thường. Điều
này có nghĩa rằng, với lãi suất cho vay hộ nghèo hiện tại là 6,6%/năm, lãi suất
cho vay nhà ở xã hội (NƠXH) tại Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) đã tăng
thêm 1,8% so với trước đây.
Theo Phó Tổng Giám đốc
NHCSXH Huỳnh Văn Thuận, mức lãi suất cho vay này đã được cơ quan có thẩm quyền
tổng kết, đánh giá, tính toán kỹ lưỡng trong quá trình xây dựng Nghị định của
Chính phủ; dự thảo Nghị định đã được lấy ý kiến tham gia rộng rãi của các bộ,
ngành, địa phương, người dân để hoàn thiện, thẩm định trước khi trình Chính phủ
ban hành theo quy định.
Đánh giá về những điều
chỉnh mới, ông Nguyễn Quốc Hùng, Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, nhận
định rằng việc phê duyệt mức lãi suất 6,6%/năm đã được cân nhắc kỹ lưỡng, nhằm
bảo đảm cân đối nhiều yếu tố. Ông cho rằng chính sách này cần nhìn nhận từ
góc độ ổn định và dài hạn, với thời hạn vay lên đến 25 năm.
Theo báo cáo của
NHCSXH, tính đến ngày 31/7/2024, sau gần 10 năm triển khai thực hiện cho vay
NƠXH theo Luật Nhà ở 2014, Nghị định số 100/2015/NĐ-CP, Nghị định số
49/2021/NĐ-CP, NHCSXH đã giải ngân được 20.894 tỷ đồng cho hơn 49.000 khách
hàng, dư nợ đạt 17.263 tỷ đồng với gần 46.000 khách hàng đang còn dư nợ. Nguồn
vốn tín dụng chính sách về NƠXH đã góp phần giúp hơn 49.000 người thu nhập thấp,
công nhân cùng gia đình có NƠXH và góp phần xây dựng hơn 49.000 căn nhà ở, ổn định
"an cư, lạc nghiệp", yên tâm lao động sản xuất, phát triển kinh tế.
Dự án NƠXH ở quận 2, TPHCM.
Xem xét điều chỉnh
phù hợp thực tiễn
Được tính toán kỹ lưỡng
nhằm duy trì tính bền vững của chương trình và giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà
nước, một số chuyên gia cũng nhấn mạnh sự cần thiết của một chính sách ổn định
trong dài hạn.
TS. Nguyễn Trí Hiếu,
Chuyên gia kinh tế, đánh giá mức lãi suất 6,6%/năm là tương đối hấp dẫn, và nhấn
mạnh cần cố định mức lãi suất này trong nhiều năm để tạo sự ổn định cho người
vay. Ông Hiếu lấy ví dụ về lãi suất vay mua nhà tại Mỹ, nơi mức lãi suất có thể
lên đến 7,5%/năm nhưng được cố định trong suốt 30 năm, giúp người vay có thể
lên kế hoạch tài chính dài hạn mà không lo ngại về sự biến động của lãi suất.
Trước những ý kiến đa
chiều liên quan đến việc điều chỉnh lãi suất cho vay NƠXH theo Nghị định số
100/2024/NĐ-CP, Phó Tổng Giám đốc NHCSXH Huỳnh Văn Thuận khẳng định với vai trò
là đơn vị triển khai thực hiện cho vay, NHCSXH sẽ tiếp thu các ý kiến để báo
cáo các bộ, ngành liên quan, từ đó báo cáo trình Chính phủ và Thủ tướng Chính
phủ xem xét, quyết định. NHCSXH cũng cam kết tiếp tục tập trung triển khai thực
hiện chương trình cho vay NƠXH bảo đảm tuân thủ đúng các quy định của Chính phủ
tại Nghị định số 100/2024/NĐ-CP, trong đó có quy định về lãi suất cho vay.
Gần 6,8 triệu hộ
gia đình vượt qua ngưỡng nghèo
NHCSXH là loại hình
ngân hàng chính sách, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận. NHCSXH được thành
lập và hoạt động theo quy định tại Nghị định số 78/2002/NĐ-CP ngày 04/10/2002 của
Chính phủ, Quyết định số 131/2002/QĐ-TTg ngày 04/10/2002, Quyết định số
16/2003/QĐ-TTg ngày 22/01/2003 của Thủ tướng Chính phủ. Trong đó, hoạt động của
NHCSXH là cho vay đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác theo quy định
của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. NHCSXH thực hiện cho vay theo quy định của
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về: Đối tượng vay vốn, điều kiện vay vốn, mức vốn
cho vay, lãi suất cho vay, thời hạn cho vay...
Trong suốt hơn 20 năm
hoạt động, NHCSXH đã không ngừng hoàn thiện và triển khai thành công mô hình tổ
chức quản trị, điều hành và đã tiếp nhận, quản lý an toàn, hiệu quả nguồn vốn
tín dụng, triển khai kịp thời các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về
tín dụng chính sách xã hội góp phần vào thực hiện thắng lợi các Chương trình mục
tiêu quốc gia: Giảm nghèo bền vững; xây dựng nông thôn mới; phát triển kinh tế-xã
hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi và bảo đảm an sinh xã hội.
Đến hết ngày
31/7/2024, tổng nguồn vốn của NHCSXH đạt 373.010 tỷ đồng, tổng dư nợ đạt
350.822 tỷ đồng với gần 6,9 triệu hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính
sách khác còn dư nợ. Nguồn vốn chính sách đã hỗ trợ gần 6,8 triệu hộ gia đình
vượt qua ngưỡng nghèo, giải quyết việc làm cho hơn 7,2 triệu lao động (trong đó
gần 145.000 lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài), hỗ trợ gần 4 triệu
học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn đi học, giúp mua hơn
90.000 máy tính, thiết bị học trực tuyến cho học sinh, sinh viên, xây dựng gần
20 triệu công trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, xây dựng gần
731.000 căn nhà cho người nghèo và các đối tượng chính sách khác, gần 2.000
doanh nghiệp, người sử dụng lao động bị ảnh hưởng do dịch COVID-19 vay vốn để
trả lương ngừng việc, phục hồi sản xuất cho hơn 1,2 triệu lượt người lao động.
Đối tượng được vay vốn
ưu đãi để mua, thuê mua nhà ở xã hội, nhà ở cho lực lượng vũ trang nhân dân;
xây dựng hoặc cải tạo, sửa chữa nhà ở theo Nghị định số 100/2024/NĐ-CP:
1. Người có công với
cách mạng, thân nhân liệt sĩ thuộc trường hợp được hỗ trợ cải thiện nhà ở theo
quy định của Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng.
2. Hộ gia đình nghèo,
cận nghèo tại khu vực nông thôn.
3. Hộ gia đình nghèo,
cận nghèo tại khu vực nông thôn thuộc vùng thường xuyên bị ảnh hưởng bởi thiên
tai, biến đổi khí hậu.
4. Hộ gia đình nghèo,
cận nghèo tại khu vực đô thị.
5. Người thu nhập thấp
tại khu vực đô thị.
6. Công nhân, người
lao động đang làm việc tại doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã trong
và ngoài khu công nghiệp.
7. Sĩ quan, quân nhân
chuyên nghiệp, hạ sĩ quan thuộc lực lượng vũ trang nhân dân, công nhân công an,
công chức, công nhân và viên chức quốc phòng đang phục vụ tại ngũ; người làm
công tác cơ yếu, người làm công tác khác trong tổ chức cơ yếu hưởng lương từ
ngân sách nhà nước đang công tác.
8. Cán bộ, công chức,
viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức.
Nguồn tin: VH
Chinhphu.vn