Nông
nghiệp Việt Nam đang từng bước chuyển đổi mô hình sản xuất đáp ứng tăng trưởng
và tiêu dùng xanh. Nông nghiệp xanh hướng đến nâng cao tính cạnh tranh của nông
sản, phát triển công nghệ xử lý và tái sử dụng phụ phẩm, phế thải, ổn định kinh
tế và giúp cho người nông dân có chất lượng cuộc sống tốt hơn, bảo vệ các nguồn
tài nguyên và hệ sinh thái nông nghiệp... đảm bảo nông nghiệp bền vững trên cả
trụ cột kinh tế-xã hội và môi trường, góp phần vào sự phát triển kinh tế xanh.
Tóm tắt
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu
tác động mạnh mẽ đến đời sống kinh tế toàn cầu, đầu tư cho phát triển xanh là
xu hướng tất yếu. Những năm qua, nước ta đã có bước chuyển mới hướng tới một
nền kinh tế xanh, trong đó có việc đẩy mạnh phát triển nông nghiệp xanh để bảo
đảm bền vững các trụ cột kinh tế - xã hội - môi trường. Bài viết khái quát thực
trạng phát triển nông nghiệp xanh ở nước ta hiện nay, từ đó, đề xuất một số
giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển ngành kinh tế này, hướng tới phát triển nông
nghiệp bền vững.
Từ khóa: kinh tế xanh,
canh tác hữu cơ, phát triển nông nghiệp bền vững, nông nghiệp xanh
Summary
In the context of climate change
causing strong impacts on the global economy, investing in green development is
an inevitable trend. In recent years, our country has made a new step towards a
green economy, including the promotion of green agriculture development to
ensure the sustainability of the socio-economic - environmental pillars. The
article summarizes the current situation of green agriculture development in
our country, thereby proposing some solutions to promote the sustainable
agricultural development.
Keywords: green economy, organic
farming, sustainable agricultural development, green agriculture
GIỚI THIỆU
Nông
nghiệp Việt Nam đang từng bước chuyển đổi mô hình sản xuất đáp ứng tăng trưởng
và tiêu dùng xanh. Nông nghiệp xanh hướng đến nâng cao tính cạnh tranh của nông
sản, phát triển công nghệ xử lý và tái sử dụng phụ phẩm, phế thải, ổn định kinh
tế và giúp cho người nông dân có chất lượng cuộc sống tốt hơn, bảo vệ các nguồn
tài nguyên và hệ sinh thái nông nghiệp... đảm bảo nông nghiệp bền vững trên cả
trụ cột kinh tế-xã hội và môi trường, góp phần vào sự phát triển kinh tế xanh.
Tuy nhiên, từ chính sách đến thực tiễn là cả một quá trình đặt ra nhiều khó
khăn, thách thức đối với phát triển nông nghiệp xanh. Vì vậy, cần thiết có một
nghiên cứu về phát triển nông nghiệp xanh để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc
trên, hướng tới một nền nông nghiệp bền vững.
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP
XANH
Chính sách thúc đẩy phát triển
nông nghiệp xanh
Trên thế giới, tăng trưởng xanh nói
chung, nông nghiệp xanh nói riêng đã dần trở thành xu hướng chủ đạo. Trong bối
cảnh đó, nhiều cơ chế, chính sách tạo điều kiện phát triển nông nghiệp xanh đã
được ban hành, như: Nghị quyết số 19-NQ/TW, ngày 16/6/2022, Hội nghị lần thứ
năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn
đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 khẳng định, vai trò của nông nghiệp là lợi
thế quốc gia, trụ đỡ của nền kinh tế, trong đó phát triển nông nghiệp gắn với
nông nghiệp xanh, hữu cơ, tuần hoàn, gắn với nhu cầu thị trường.
Quyết
định số 150/QĐ-TTg, ngày 28/1/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược
phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến
năm 2050. Mục tiêu chung của Chiến lược hướng tới xây dựng nền nông nghiệp sản
xuất hàng hóa đồng thời phát triển nông nghiệp dựa trên lợi thế địa phương,
theo hướng hiện đại có năng suất, chất lượng, hiệu quả, bền vững và sức cạnh
tranh cao thuộc nhóm dẫn đầu trong khu vực và trên thế giới, đảm bảo vững chắc
an ninh lương thực quốc gia. Ngay sau đó, tháng 9/2022, Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn đã phê duyệt Kế hoạch hành động thực hiện Chiến lược quốc gia
về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030 nhằm mục tiêu phát triển nông nghiệp
theo hướng sinh thái, tuần hoàn, phát thải các bon thấp nhằm nâng cao chất
lượng tăng trưởng, giá trị gia tăng, năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững...
Theo đó, phát triển nông nghiệp theo hướng sinh thái, hữu cơ, tuần hoàn, phát
thải các bon thấp nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng, giá trị gia tăng, năng
lực cạnh tranh và phát triển bền vững; giảm ô nhiễm môi trường nông nghiệp,
nông thôn, hướng đến nền kinh tế trung hòa các bon vào năm 2050.
Hay
Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững đến năm 2030 (ban hành
theo Quyết định số 150/QĐ-TTg, ngày 28/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ) yêu
cầu: Phát triển nền nông nghiệp xanh, thân thiện với môi trường, thích ứng với
biến đổi khí hậu, giảm ô nhiễm môi trường nông thôn, phấn đấu giảm phát thải
khí nhà kính 10% so với năm 2020.
Ngày
23/6/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 885/QĐ-TTg phê duyệt
Đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2020-2030. Đề án đặt ra mục tiêu:
Phát triển nền nông nghiệp hữu cơ có giá trị gia tăng cao, bền vững, thân thiện
với môi trường sinh thái, gắn với kinh tế nông nghiệp tuần hoàn phục vụ tiêu
dùng trong nước và xuất khẩu. Sản phẩm nông nghiệp hữu cơ được chứng nhận phù
hợp với tiêu chuẩn nông nghiệp hữu cơ của khu vực và thế giới; đưa Việt Nam trở
thành quốc gia có trình độ sản xuất nông nghiệp hữu cơ ngang bằng các nước tiên
tiến trên thế giới.
Kết quả đạt được
Với
các chính sách nói trên, tại Việt Nam, mô hình nông nghiệp xanh đang ngày càng
được người nông dân quan tâm. Tại nhiều địa phương, nhiều mô hình đã và đang
trong quá trình chuyển đổi phát triển nông nghiệp xanh, sinh thái theo xu hướng
thị trường thế giới cũng như giúp giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu.
Nhiều
địa phương, doanh nghiệp, hợp tác xã đã nâng cao về nhận thức cho nông dân
trong việc giảm lượng giống gieo sạ, quản lý dịch hại tổng hợp IPM, sử dụng
thuốc bảo vệ thực vật theo“4 đúng,” giảm lượng phân bón vô cơ, đi đôi với nhiều
tiến bộ kỹ thuật, như: "3 giảm 3 tăng," "1 phải 5 giảm," kỹ
thuật tưới nông - lộ - phơi... Những giải pháp, quy trình kỹ thuật đồng bộ này
đã và đang mang lại nhiều lợi ích trong thực tiễn, giúp tăng năng suất và chất
lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất và giảm gây ô nhiễm môi trường. Những
nghiên cứu đã chỉ ra, ruộng lúa bị ngập nước càng lâu thì lượng khí methane
sinh ra càng nhiều. Các ruộng lúa được áp dụng kỹ thuật tưới nông - lộ - phơi
giúp giảm khoảng 3,5 lần lượng phát thải khí nhà kính so với các ruộng lúa để
ngập nước suốt cả vụ.
Hay
mô hình lúa-tôm, lúa-cá… là một trong những mô hình điển hình về thích nghi với
biến đổi khí hậu của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long không chỉ nâng cao giá trị
cho sản xuất, mà còn giúp giải quyết vấn đề giảm phát thải khí nhà kính, xây
dựng nền nông nghiệp xanh, bền vững. Đây chính là những hướng đi mới phù hợp
với thị trường hiện nay bởi trên thị trường thế giới, nhiều quốc gia đã khuyến
khích, ưu tiên nhập khẩu các sản phẩm sinh thái, sản phẩm hữu cơ.
Trong
chăn nuôi, việc xử lý chất thải, tận dụng phụ phẩm nông nghiệp theo hình thức
kinh tế tuần hoàn đang được áp dụng với những quy mô khác nhau. Cùng với các
công trình khí sinh học, ngành chăn nuôi đang đẩy mạnh hướng dẫn nông dân thu
gom chất thải vật nuôi để nuôi trùn quế, ruồi lính đen… tạo nguồn protein làm
thức ăn cho vật nuôi trong bối cảnh giá thức ăn chăn nuôi tăng cao, vừa chuyển
hóa chất thải thành phân bón hữu cơ, giảm tác hại đến môi trường. Điển hình như
trong chăn nuôi bò của Công ty Cổ phần T&T 159 Hòa Bình, để tạo nguồn thức
ăn, Công ty đã thu mua toàn bộ phụ phẩm nông nghiệp, như: thân cây ngô, rơm,
đậu lạc... sản xuất thành thức ăn chăn nuôi. Tận thu các phế phẩm của ngành sản
xuất gỗ như: dăm, bào, mùn cưa… sản xuất thành đệm sinh học. Thức ăn của vi
sinh vật trong đệm sinh học chính là chất thải của bò. Việc chuyển hóa này sẽ
giúp chuồng trại không có mùi hôi, luôn sạch sẽ. Đặc biệt, nhà máy sản xuất
phân bón hữu cơ sẽ tái chế các đệm sinh học này và đây cũng là nguồn thu có ý
nghĩa nhất định trong thu nhập của doanh nghiệp (Bích Hồng, 2022). Cách làm
trên đang được Công ty cổ phần T&T 159 Hòa Bình và Hội đồng Doanh nghiệp
nông nghiệp Việt Nam cùng nông dân, trang trại cho đến các doanh nghiệp lớn lan
tỏa để xây dựng hệ sinh thái nông nghiệp tuần hoàn.
Một
trong những cách thức canh tác của nông nghiệp xanh chính là sản xuất nông
nghiệp hữu cơ, cũng đã và đang được phát triển mạnh mẽ trong nhiều năm nay.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, nếu như năm 2016, diện tích canh
tác hữu cơ đạt khoảng 77.000 hecta, thì đến năm 2022, cả nước có khoảng 240.000
hecta canh tác hữu cơ. Đặc biệt, có đến 59/63 tỉnh, thành phố trên cả nước
triển khai nông nghiệp hữu cơ và xu hướng này ngày càng lan tỏa mạnh mẽ (Nguyễn
Đình Đáp, Phạm Thị Trầm (2022).
Nhờ
triển khai nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp xanh, sạch nên sản phẩm nông
nghiệp, thủy sản sạch, truy xuất được nguồn gốc đã chiếm tỷ trọng ngày càng
lớn. Điều tra công bố năm 2020 của Tổ chức Nông nghiệp Quốc tế cho biết, sản
phẩm nông nghiệp hữu cơ Việt Nam được tiêu thụ trong nước và xuất khẩu sang 180
nước trên thế giới, bao gồm: Mỹ, Liên minh châu Âu (EU), Trung Quốc, Nhật, Đức,
Anh, Hàn Quốc, Nga, Singapore, Pháp, Bỉ, Hà Lan, Italy… (Thuận Nguyễn, 2022).
Những vấn đề đặt ra
Có
thể thấy, nông nghiệp xanh tại Việt Nam đã có những bước phát triển
vượt bậc. Tuy nhiên, thực tế, vẫn còn tồn tại một số “điểm nghẽn” cần được tháo
gỡ, đó là:
-
Chưa có quy hoạch về sản xuất hữu cơ, chưa có các cơ chế, chính sách riêng hỗ
trợ cho sản xuất hữu cơ, mà lồng ghép thực hiện trong các chương trình, dự án
khác như: chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, hỗ trợ
liên kết sản xuất tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng…
- Quy
mô sản xuất nhỏ lẻ đang là “rào cản” cho việc áp dụng hình thức sản xuất khép
kín, tập trung với diện tích canh tác lớn.
-
Người tiêu dùng chưa thực sự tin tưởng và chưa có kinh nghiệp phân biệt giữa
sản phẩm sản xuất hữu cơ và các sản phẩm thông thường khác.
-
Trình độ, năng lực tiếp cận khoa học và công nghệ còn nhiều hạn chế, dẫn tới
quá trình phát triển nông nghiệp xanh còn chậm.
-
Người nông dân hiện vẫn còn những thói quen, tư duy cũ trong sản xuất vẫn chưa
được xoá bỏ, như: sử dụng quá mức phân bón vô cơ, thuốc bảo vệ thực vật, lạm
dụng thuốc trong chăn nuôi - thú y - thuỷ sản, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường,
vệ sinh an toàn thực phẩm… đang ngày càng trở thành vần đề nghiêm trọng, ảnh
hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe con người, môi trường sinh thái và uy tín sản
phẩm của Việt Nam trên trường quốc tế.
MỘT SỐ ĐỀ XUẤT
Để
hội nhập trong kinh tế nông nghiệp, Việt Nam cần có những bước đi mới và có tầm
nhìn để chuyển đổi sang hệ thống lương thực thực phẩm xanh, ít phát thải và bền
vững. Theo tác giả, cần chú trọng thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, để có nguồn vốn đầu tư cho
tăng trưởng xanh, ngành nông nghiệp cần chú trọng huy động các nguồn lực xã
hội, nhất là từ doanh nghiệp cho thực hiện các mục tiêu tăng trưởng xanh. Tăng
cường hợp tác quốc tế để kêu gọi hỗ trợ về tài chính và chuyển giao công nghệ
nhằm đưa nông nghiệp Việt Nam thành hình mẫu về phát triển nông nghiệp xanh,
carbon thấp, an toàn thực phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh trong chuỗi nông
sản toàn cầu.
Ngoài
ra, xây dựng nền kinh tế xanh, phát triển nông nghiệp xanh, hình thành nếp sống
hài hòa giữa con người và tự nhiên…, trước hết, các nhà quản lý và người dân
cần đổi mới tư duy, nhận thức, chủ động thúc đẩy kinh tế xanh, tăng trưởng
xanh, tiêu dùng xanh… Bên cạnh đó, ngành nông nghiệp và các địa phương cần tạo
đột phá mới bằng hệ thống giải pháp đồng bộ, phát triển nông nghiệp sinh thái
theo hướng đa giá trị, đa ngành, lồng ghép các giá trị kinh tế, xã hội, môi
trường… Cùng với đó là tận dụng tối đa ưu thế tự nhiên của các vùng miền cho
phát triển nông nghiệp, bảo đảm sự tương tác với môi trường sinh thái.
Thứ hai, cần có chính sách tín
dụng vốn đầu tư phù hợp với các hộ gia đình để họ đầu tư mở rộng quy mô sản
xuất. Trong các nguồn lực để phát triển kinh tế xanh, thì vốn là nguồn lực quan
trọng. Việc hình thành và phát triển các mô hình sản xuất theo hướng
"xanh" đòi hỏi vốn đầu tư ban đầu lớn hơn so với mô hình sản xuất
thông thường, do đó cần có sự hỗ trợ nguồn vốn cho việc phát triển. Bên cạnh
đó, phương thức, thủ tục cho vay, thu nợ cần phù hợp với đặc điểm của từng loại
mô hình sản xuất. Các thủ tục phải đơn giản, thuận tiện, cơ chế cho vay và thu
nợ theo thời vụ của cây trồng, vật nuôi giúp nông dân yên tâm sản xuất.
Thứ ba, về khoa học, công nghệ,
cần tập trung nâng cao kiến thức, kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi cho dân thông
qua mạng lưới khuyến nông, giúp dân chủ động trong sản xuất dựa trên những kiến
thức của bản thân; đẩy mạnh ứng dụng các tiến bộ khoa học mới vào sản xuất.
Thứ tư, để giải quyết vấn đề
thị trường cho nông dân trong việc tiêu thụ nông sản hàng hóa, các địa phương
cần tạo dựng những vùng sản xuất chuyên canh, quy mô lớn, được chuẩn hóa với
những quy trình canh tác chặt chẽ; đồng thời chuyển đổi số để khớp nối thông
tin giữa sản xuất và tiêu thụ, qua đó truy xuất được nguồn gốc sản phẩm. Đây
chính là yếu tố hàng đầu để định vị một nền nông nghiệp xanh.
Thứ năm, sản xuất nông nghiệp có
tính rủi ro cao do những tác động của các yếu tố thời tiết, khí hậu, vì vậy để
giảm thiểu rủi ro, cần có chính sách về bảo hiểm cho nông nghiệp. Đây là một
lĩnh vực mới đối với cả nông dân và các tổ chức bảo hiểm, nên Nhà nước cần có
chính sách hỗ trợ các tổ chức thực hiện bảo hiểm nông nghiệp./.
Nguồn: kinhtevadubao.vn